“P&DOWN”[1]được tác giả đề xuất như một giải pháp tổng thể cho tranh chấp trên Biển Đông. Bối cảnh “hậu giàn khoan” là lúc xét lại các nan đề trong từng thành tố của giải pháp, ngoài ý nghĩa thực tiễn còn mang hơi thở từ các sự kiện nóng. Giải pháp này gồm: (P) tái thẩm định chất lượng chiến lược trong hệ thống đối tác của Việt Nam; (D) thúc đẩy quá trình dân chủ hóa bên trong Việt Nam; (O) vượt qua rào cản để đi tới bộ Quy tắc COC. Ba mũi giáp công P—D—O càng phát huy tính vượt trội, nếu đặt trên căn bản cuộc “thoát Trung” như sự rũ bỏ “vòng kim cô” ý thức hệ (W). Tư duy minh triết – Wisdom – sẽ hội đủ nội lực để kiến tạo Việt Nam thành “khớp nối mềm” (N), một thực thể địa-chính trị mới sánh vai với các nước trong khu vực.
Sau khi rút giàn khoan về, hiện nay, Trung Quốc đang xua hàng vạn tàu cá có tổ chức chặt chẽ tràn xuống Biển Đông. Đã có khá nhiều kiến nghị được đưa ra nhằm ứng phó với họa xâm lăng cận kề[2]do sự hung hăng trên hành động và sự bá quyền trong chính sách bành trướng của Bắc Kinh. Trên tinh thần chủ nghĩa hiện thực trong nghiên cứu quốc tế, từ lợi ích quốc gia-dân tộc, “P&DOWN” tìm hướng ra trong từng biện pháp nhằm hướng tới một giải pháp chung. Đây là cách tích hợp sức mạnh “thông minh” để đối phó với hiểm họa khôn lường. Nếu mô hình này được áp dụng, hy vọng sẽ góp phần đòi lại hòa bình và công lý cho Biển Đông[3]. “Sóng gió” trên Biển Đông đã từng/và sẽ còn gắn với bang giao Việt-Trung và gắn với quan hệ giữa Trung Quốc với phần còn lại của thế giới. Vì vậy, bất cứ giải pháp nào muốn hóa giải rắc rối Việt-Trung, nhất thiết phải là một bộ phận trong giải pháp của khu vực/thế giới đối với Trung Quốc.
Đối với nhiều chiến lược gia khu vực này, bên cạnh hồ sơ tranh chấp/xung đột, chắc hẳn phải cầm trong tay cuốn “Vạc dầu châu Á: Biển Đông và sự kết thúc của Thái Bình Dương yên tĩnh”[4].Cuốn sách là một “hiện tượng” không chỉ vì tên tuổi Robert Kaplan, mà con do nó được xuất bản đúng vào thời điểm có sự cố giàn khoan. Phần Biển Đông của “vạc dầu” sẽ tiếp tục sôi, vì trên thực tế, Trung Quốc đã hoàn thành xong việc xây dựng “căn cứ nổi Gạc Ma” trong thời gian hạ đặt giàn khoan HD-981 nhằm tạo thế chân vạc cho các căn cứ của họ và cũng là để “dựng” bộ xương cho “đường lưỡi bò/đường chữ U”. Điều này ta nhận ra hơi muộn, vì Trung Quốc chơi trò “đánh lận con đen” rằng, đấy là vùng tranh chấp với Việt Nam. “P&DOWN”, vì vậy, bắt đầu bằng việc thẩm định lại hệ thống đối tác chiến lược và tiến trình dân chủ ở Việt Nam trong bối cảnh thực địa trên biển đảo đã bị Trung Quốc thay đổi rất nhanh, đặt mọi chuyện thành sự đã rồi (fait accompli).
1. Đối tác chiến lược và ưu tiên chiến lược
Đầu 2014, Việt Nam ghi nhận đã xác lập được hàng chục quan hệ “đối tác chiến lược” và “đối tác toàn diện” với các quốc gia khác nhau[5], trong đó có 5 Ủy viên Thường trực HĐBA/LHQ (P5). Nhưng qua vụ HD-981 có thể thấy khuôn khổ bang giao với P5 được coi là thành tựu của đường hướng đa dạng/đa phương hóa, đang có vấn đề. Kẻ trực tiếp vi phạm độc lập, chủ quyền của Việt Nam không ai khác, chính là “ĐTCL toàn diện” Trung Quốc. Nga là ĐTCL vốn được Việt Nam kỳ vọng, lại giữ lập trường trung lập “lạnh tanh” và không chống trong trường hợp ấy nghĩa là “thuận” cho Bắc Kinh. Hai ĐTCL còn lại, Pháp và Anh có ủng hộ đấy, nhưng “núp bóng” EU. Chỉ Nhật Bản xứng với danh hiệu và sự đón đợi từ Việt Nam. Nghịch lý là: đối tác “chưa” chiến lược – Washington – lập trường thế nào thì mọi người đã rõ, dẫu có nhiều cách lý giải khác nhau về các động cơ.
Tiến trình hướng tới ĐTCL Việt-Mỹ đang trải qua những diễn biến đáng chú ý. Ngày 17/2/2010 vấn đề được nêu trên tờ“Tuần Việt Nam”[6]đã gây sóng gió trong dư luận. Nhưng đến ngày 21/7 cùng năm, nhân chuyến thăm Hà Nội của của Ngoại trưởng Hillary, từ học giả đến thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao Việt Nam đều nhấn mạnh nhu cầu “nâng cấp” mối quan hệ này[7]. Tuy nhiên, trong tuyên bố về chuyến thăm của bà Hillary một năm sau đó, ngày 31/8/2011, ĐTCL lại bị bỏ qua[8]và bị “treo” cho tới tháng 5/2013. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong phát biểu ngày 31/5/2013 tại Đối thoại Shangri-La ở Singapore đã trở lại chủ đề này khi tuyên bố Việt Nam muốn có ĐTCL với tất cả các thành viên thường trực HĐBA/LHQ (tức là cả với Mỹ)[9]. Trước chuyến thăm Mỹ của Chủ tịch Trương Tấn Sang (7/2013), giới quan sát có dự đoán khả năng “nâng cấp”. Nhưng kết quả là hai bên chỉ thỏa thuận xác lập quy chế “đối tác toàn diện”. Tuy nhiên, ngày 25/5/2014, Tư lệnh Bộ Chỉ huy TBD của Mỹ, Đô đốc Samuel Locklear lại xác nhận Mỹ muốn nâng cấp quan hệ ĐTCL với Việt Nam[10].
Quá trình “nâng cấp” từ nay không chỉ là thước đo quan trọng của quan hệ Việt-Mỹ. Vấn đề này giờ đây trở thành một bộ phận của chiến lược đa phương (Việt, Mỹ với thế giới). Căn cứ lộ trình tới đây mà Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) – một “think-tank” có ảnh hưởng lớn đến chính quyền Obama – vừa đề xuất[11], mười sáu khuyến nghị được coi là then chốt đối với quan hệ Mỹ-Việt sẽ là những cú hích ngoạn mục. Vấn đề bây giờ là những sáng kiến ấy cần được cộng hưởng bởi các chủ động từ phía Việt Nam. Một bàn tay không làm nên tràng vỗ tay. ĐTCL là con đường hai chiều. Hiện nay, bài toán đối ngoại thật ra có những mặt khó giải quyết hơn cả bài toán kinh tế. Không chỉ vì Việt Nam ở cạnh một “ĐTCL toàn diện” phức tạp, mà chủ yếu là vì chúng ta đang phải đối mặt với những khó khăn trong quá trình nhận dạng chính sách[12]. Chủ động thúc đẩy quan hệ với Mỹ để sẵn sàng chung sống hòa bình với Trung Quốc chỉ là một vế của phương trình. Vế khác quan trọng không kém là sự thừa nhận các giá trị phổ quát của nhân loại. Chưa đạt tới nhận thức này, chưa thể có chiến lược đối ngoại ổn định, dù là với Mỹ, phương Tây hay Trung Quốc.
Bí ẩn hiện nay là ý đồ của Trung Quốc đằng sau việc họ “leo thang” hay “xuống thang” đều mập mờ và nguy hiểm[13]. Trung Quốc quyết tâm thôn tính Biển Đông và tiếp tục khóa chặt Việt Nam trong vòng lệ thuộc. Trung Quốc cũng đã quyết định chọn Việt Nam như một khâu yếu nhất để đột phá trên con đường “Nam tiến”, và “trổ lối” ra TBD của họ. ĐCS Việt Nam, vì vậy, sẽ phải đưa ra một quyết sách lịch sử: trở lại “đường ray cũ” có từ Thành Đô hay chấp nhận dân chủ hóa đất nước để huy động “sức mạnh thời đại” bảo vệ độc lập, chủ quyền. Sự lựa chọn khá ngặt nghèo nhưng không phải là bất khả thi[14]. Xem xét lai các chất lượng chiến lược trong hệ thống đối tác và vấn đề dân chủ hóa có thể tạo nên hiệu ứng “hợp trội” mà tác động của chúng đối với đất nước sẽ thuận hơn. Với tư cách là quốc gia dân chủ, Việt Nam sẽ có vị thế và tiếng nói khác, với tư cách là thành viên của các cấu trúc khu vực, Việt Nam sẽ tạo được một “bệ đỡ” vững chắc hơn hiện nay.
2. Dân chủ hóa: giới hạn và tiềm năng
Một nhà ngoại giao ở Hà Nội từng nói với người viết bài này: “Mỹ không hẳn muốn ép Việt Nam dân chủ hóa. Quan hệ với các nhà toàn trị dễ chịu hơn nhiều”. Tác giả đã đáp lại, dân chủ hóa không thể tiến hành dưới sức ép, dân chủ hóa là nhu cầu nội tại của Việt Nam. Đây là câu chuyện “về lẽ sống, lẽ phải, về chuyện trị nước, yên dân, chuyện hòa hợp hòa giải, chuyện tôn trọng sự khác biệt”[15]. “Dân chủ hóa” và “nâng cấp” quan hệ với Mỹ, tuy nhiên, cũng là là câu chuyện “con gà và quả trứng”. Hai thành tố này nhất định sẽ sản sinh chất lượng mới cho hệ thống. Có điều, cần hiểu một cách thấu đáo hơn nhân tố dân chủ trong mối tương quan giữa nội trị và ngoại giao của Việt Nam. Từ BTA, sau đó là WTO và giờ đây TPP đang đến gần, tiến trình dân chủ hóa đang lừng lững đi tới. Tuy nhiên, nhìn tiến trình này diễn ra trên thế giới, từ sự sụp đổ ở Liên Xô-Đông Âu đến các cuộc cách mạng đủ sắc màu trên khắp các lục địa, phải thừa nhận một sự thật, dân chủ “không phải là bữa trưa miễn phí”.
Tiến trình dân chủ hóa ở một số trường hợp cụ thể, dễ trở thành cạm bẫy trong quá trình chuyển đổi. Vì vậy, ngay cả những người đang đấu tranh cho dân chủ vẫn hi vọng vào sự đột phá bên trong từ bộ phận tiên tiến nhất của đảng cầm quyền, biết tách ra, vượt lên, nhưng vẫn chế ngự được quyền lực; vừa khởi xướng, vừa tiết chế được quá trình thay đổi. Chính các đảng viên khi họ biết đặt quyền lợi dân tộc-quốc gia lên trên quyền lợi cá nhân, từ bỏ tư duy lạc hậu và sáo mòn, tức khắc hình hài của dân chủ đích thực sẽ ló dạng. Nhiều ý kiến cho rằng khả năng này trong bối cảnh hiện nay là không lớn, nhưng xác suất “bé” của tiến trình tự thay đổi vẫn đáng được thúc đẩy để ngăn chặn một sự đổ vỡ “lớn”. Sự ra đời của diễn đàn các tổ chức xã hội dân sự có thể là một dấu hiệu hứa hẹn. Diễn đàn tự nguyện hoạt động trong khuôn khổ pháp lý. Nó phối hợp với đảng/nhà nước để kiểm soát và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, thúc đẩy kinh tế thị trường để bảo đảm sự ổn định, cân bằng mối quan hệ giữa nhà nước với xã hội công dân[16].
Đảng Cộng sản Việt Nam, hơn một lần, đã thể hiện khả năng tự thay đổi. Đó là quãng thời gian từ Cương lĩnh Trần Phú đến Mặt trận Bình dân, đó là giai đoạn từ Nghị quyết IX chống xét lại đến đường lối đoàn kết Trung-Xô sau này và gần đây nhất là cuộc “tự cởi trói” để đi vào Đổi mới và Hội nhập. Hẳn nhiên, cuộc dịch chuyển thời toàn cầu hóa sẽ khác và thách đố hơn nhiều. Song chưa bao giờ vấn đề đặt ra lại cấp bách như lần này: chấp nhận thay đổi, vì lợi ích quốc gia-dân tộc, để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hay sẽ mất tất cả! Hẳn nhiên, mỗi dân tộc, mỗi một quốc gia, mỗi một đảng chính trị có các cách thức quan niệm và có những khả năng để thực thi quá trình dân chủ hóa một cách hoàn toàn khác nhau. Nhưng dân chủ hóa là quá trình không thể cưỡng lại được. Nếu không ý thức được điều này thì không thể có bất cứ một tiên đề nào để cải thiện chất lượng chiến lược trong quan hệ với các đối tác lớn[17].
Trong khi đó, một Việt Nam dân chủ không chỉ là lợi khí, mà còn là điều Trung Quốc luôn e ngại. Phải kết nối sức mạnh cứng với sức mạnh mềm và sức mạnh thông minh mới có cơ chặn được tham vọng của Trung Quốc. Mọi so sánh đều tương đối, nhưng tấm gương Myanmar thực sự cho chúng ta nhiều điều đáng suy ngẫm. Trung Quốc không bao giờ muốn có các quốc gia phên dậu là một Myanmar cải cách, một Việt Nam chuyển đổi, hay một bán đảo Triều Tiên thống nhất. Bởi đó chính là những quả mìn hẹn giờ đối với xã hội Trung Quốc sau 30 năm phát triển nóng, nay đang hạ cánh một cách khá kềnh càng. Trung Quốc không chỉ tìm cách giữ “vòng kim cô” trên đầu Việt Nam, muốn Việt Nam không “nâng cấp” quan hệ với Mỹ, mà còn “ban phát” lời khuyên: Việt Nam không được “nhảy múa giữa khả năng liên minh với Mỹ và (cái gọi là) tình huynh đệ với Trung Quốc”[18].
3. COC trong tương quan Việt-Trung-ASEAN
Cho đến nay, vẫn còn một số trở ngại khiến cho ASEAN và Trung Quốc chưa đi tới bộ quy tắc mang tính ràng buộc (COC)[19]. Ngay cả thỏa thuận về một phiên bản cuối cùng của COC cũng còn khó khăn. ASEAN phải đồng thuận về bộ quy tắc ứng xử cũng như cách diễn giải bộ quy tắc đó. Tuy nhiên, với những tuyên bố và lập trường trái ngược nhau giữa các thành viên, thỏa thuận về những vấn đề cụ thể là điều chưa đạt tới, bởi đa số thành viên hiệp hội có thể sẽ muốn có những điều khoản với “khoảng trống linh hoạt”. Trong trường hợp ASEAN đoàn kết về những gì họ muốn Trung Quốc phải nhất trí, thì Bắc Kinh cũng sẽ diễn giải phương pháp tiếp cận COC theo cách thức rất khác với ASEAN. Mặc dầu các bên có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông nói rằng họ muốn thương lượng về một bộ COC, Trung Quốc và ASEAN vẫn chưa tìm được ngôn ngữ chung.
Quá trình hiệp thương giữa Trung Quốc và ASEAN về COC đã dẫn đến việc hiệp hội chia ra làm hai nhóm, có và không có tranh chấp. Điều này khiến cho ASEAN khó đạt được một lập trường thống nhất trong khi Trung Quốc có thể lợi dụng khác biệt giữa các nước trong khối và kéo dài các cuộc hiệp thương trước khi chịu đàm phán. Nhờ đó Trung Quốc có thêm thời gian để củng cố sự hiện diện và kiểm soát đối với các vùng biển và thực thể ở Biển Đông. Việc Trung Quốc đối đầu với Philippines tại bãi cạn Second Thomas và việc họ kéo giàn khoan HD-981 vào vùng biển của Việt Nam là dấu hiệu cho thấy Trung Quốc muốn tình trạng trên thực địa sẽ thay đổi đến mức các nước không thể làm gì được nữa trước khi đạt được thỏa thuận COC. ASEAN cần tiến đến đạt sự đồng thuận về một dự thảo COC của chính mình để có một lập trường thống nhất trong các cuộc tham vấn với Trung Quốc.
An ninh trên biển ở khu vực Đông Nam Á là quan trọng như nhau đối với tất cả các thành viên ASEAN, dù là nước có biển hay không có biển. Một COC như thế sẽ giúp cho tất cả các nước trong hiệp hội đều có vai trò như nhau. Điều này tránh tình trạng phân chia ASEAN thành hai nhóm có và không có tranh chấp trên Biển Đông. Mặt khác, luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS, áp dụng như nhau đối với tất cả các vùng biển chứ không riêng gì Biển Đông. Việc thông qua một bản Quy tắc ứng xử cho những vấn đề chung trên Biển Đông sẽ giúp củng cố tư cách pháp lý của ASEAN và tăng cường khả năng của họ đối phó với các cường quốc bên ngoài. Một văn bản mang tính ràng buộc về pháp lý này sẽ là quy tắc ứng xử cho những vấn đề chung trên biển của Đông Nam Á chứ không đơn thuần chỉ là COC cho Biển Đông[20].
Đối với một nước là thành viên của P5 như TQ mà không tôn trọng luật pháp quốc tế, Việt Nam càng phải nêu cao ngọn cờ pháp lý để đấu tranh. COC sẽ là công cụ quan trọng nếu nó được xây dựng trên căn cứ của Công ước LHQ về Luật biển (UNCLOS) và đảm bảo bởi quyết tâm của ASEAN. “Việc đấu tranh này phải bắt đầu ngay hôm nay chứ không thể đợi tới ngày mai”[21]. Có ba việc mà Việt Nam nên thực hiện song song: cuộc chiến pháp lý theo Luật biển quốc tế, cuộc chiến chính trị/ngoại giao (VN cần tận dụng mọi sự ủng hộ của quốc tế) và cuộc chiến vì một ASEAN đoàn kết, không để bị chia rẽ, bởi lẽ tất cả các nước đều có quyền lợi ở đây. Đương nhiên, sự chênh lệch trong tương quan lực lượng giữa Trung Quốc với các nước cùng có cạnh tranh về chủ quyền là một thực tế. Vì vậy, mỗi nước ngoài việc cần tăng cường sức mạnh “cứng” để tự bảo vệ mình thì phải luôn cảnh giác, đừng rơi vào “bẫy” song phương với Trung Quốc.
4. Thỏa thuận Thành Đô và bài học “thoát Trung”
Việc triển khai ba biện pháp P—D—O từng vấp phải các rào cản. Trong số đó, ý thức hệ là rào cản lớn nhất để Việt Nam, tuy có lợi ích chiến lược song trùng nhưng cho đến nay vẫn chưa xây dựng được ĐTCL với Mỹ (P). Hệ thống đối tác với các nước tuy đã có nhưng vẫn chưa “hòa đồng” vào mạng lưới lớn trong khu vực. Tiến trình dân chủ hóa đến nay (D) vẫn đặt cược vào sự đột phá bên trong của bộ máy quyền lực. Con đường đi tới COC nhằm dùng “luật ứng xử” để giải quyết tranh chấp bị TQ cản phá (O). Tuy nhiên, các rào cản này đều có thể vượt qua, nếu chúng ta quyết tâm công khai mọi “được/mất” của quá trình từ Thành Đô như một hành động minh triết (W), rút tỉa những bài học cần thiết. Một việc cần làm ngay là quyết không để cho Trung Quốc dùng “tình hữu nghị viển vông” trùm chăn đánh mà không dám “kêu làng”. Tức là phải đặt tiến trình P—D—O trên một quyết tâm “thoát Trung” mạnh mẽ/quyết liệt. Thành công của P—D—O tùy thuộc trước nhất vào nội lực bên trong. Cả nhà cầm quyền lẫn người dân hãy nắm lấy cơ hội hiếm hoi để bứt phá và thay đổi.
“Thoát Trung” cần được hiểu là thoát khỏi quỹ đạo của Trung Quốc về kinh tế, chính trị, tư tưởng và chung quy lại là thoát về văn hóa, về những ảnh hưởng tiêu cực khác từ Trung Quốc. Về mặt chất lượng quan hệ kinh tế giữa hai nước, vấn đề đầu tư của Trung Quốc ở Việt Nam và thâm hụt mậu dịch là cả câu chuyện lớn, liên quan đến hàng loạt các vấn đề của nền kinh tế, trong đó có câu chuyện chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam. Nếu thỏa thuận Thành Đô được bạch hóa, chúng ta có thể kiểm chứng được hai tiến trình ít được đề cập công khai: i) Trung Quốc đã khống chế Việt Nam như thế nào thông qua cái gọi là sự “cộng thông” ý thức hệ; ii) Trung Quốc đã chuẩn bị các bước và triển khai kế hoạch độc chiếm Biển Đông ra sao. Khủng hoảng giàn khoan vừa qua buộc Việt Nam/khu vực/thế giới phải đối diện với một hiểm họa có tên là “tham vọng bá vương”. Chủ tịch Trương Tấn Sang đã khẳng định: “Trừ khi nào họ nói họ từ bỏ đường chín đoạn hoặc chúng ta từ bỏ chủ quyền – mà điều này chắc chắn không người dân Việt Nam nào chấp nhận”[22].
Theo ông Chu Công Phùng, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Myanmar, trong lịch sử gần 3000 năm, Trung Quốc đã xâm lược Việt Nam tất cả 20 lần (nhà Ân 1 lần, nhà Tần 1 lần, nhà Hán 4 lần, nhà Lương 3 lần, nhà Tống 2 lần, nhà Nguyên 3 lần, nhà Minh 1 lần, nhà Thanh 1 lần, CHND Trung Hoa 4 lần/trong vòng 40 năm), tức với tần suất trung bình 150 năm một lần thời phong kiến, còn thời “đồng chí” với nhau thì 10 năm một lần xâm lược[23]. Trên thế giới, chưa từng có một quốc gia nào đem quân đi xâm lược láng giềng của mình với tần suất dày đặc như vậy. Vỗ về là “lý tưởng tương đồng” mà tần suất xâm lược thời “16 chữ vàng” còn cao hơn bất cứ triều đại nào trong lịch sử phong kiến. Giữa Việt Nam và Trung Quốc không có truyền thống hữu nghị, cũng không có tương đồng về ý thức hệ. Những nhận xét của cựu Đại sứ VN tại TQ Nguyễn Trọng Vĩnh và Thiếu tướng Công an Lê Văn Cương[24]có lẽ là một trong những kết luận sâu sát về quan hệ Việt-Trung.
Trung Quốc đã nghiên cứu các căn cứ pháp lý quốc tế về chủ quyền và thừa hiểu rằng họ thất lý và rất ít cơ hội nếu bị Việt Nam kiện ra tòa án quốc tế. Việc họ rút giàn khoan có thể nhằm củng cố lập trường “chủ hòa” ở một số người, tạo ưu thế cho lập trường này, để có chỗ dựa tiến lên “chơi ép sân” ở những bước tiếp theo. Dù với bất cứ lý do nào, việc Trung Quốc rút giàn khoan chỉ là tạm thời, bởi một khi họ đã đặt bành trướng lên thành quốc sách thì không có chuyện gì họ không dám làm như thực tế hàng chục năm qua đã chứng minh. Nên nhớ là ngoài mục tiêu bành trướng biển đảo, việc Trung Quốc đặt giàn khoan 981 và các giàn khoan khác trong tương lai còn nhắm tới mục tiêu xa hơn là đẩy lùi các cường quốc khác ra khỏi khu vực, để một mình xưng bá xưng hùng[25].
5. Việt Nam như một khớp nối mềm
Quyền lợi địa-chiến lược của các bên liên quan ở Đông Á đang va chạm quyết liệt. Nửa thế kỷ nay, lần đầu tiên Nhật, Phi được Mỹ bảo vệ trong khuôn khổ các hiệp ước an ninh chung ký từ lâu. Nhật sẽ sửa hiến pháp để có quyền “tự vệ tập thể” và hành động ngoài biên giới. Vòng xoáy các tranh chấp này vừa là thách thức nhưng cũng là cơ hội đối với các nước vừa và nhỏ, tùy theo cách lựa chọn. Biến cố giàn khoan không chỉ làm suy giảm độ tin cậy trong quan hệ Việt-Trung, mà còn khiến thế “hợp tung” (ASEAN+3) phần nào đó bị yếu đi. Biến cố ấy còn góp phần chuyển hóa môi trường chiến lược, tăng thêm một cú hích cho trục “liên hoành” (Việt Nam + các quốc gia TPP). Giờ là lúc Việt Nam cần chủ động chuyển sang một vị thế cân bằng mới trong các chính sách của mình. Cuộc tranh giành ảnh hưởng trên thế giới đặt trên cả ba chân kiềng kinh tế – an ninh – quân sự, việc lựa chọn giữa hợp tung và liên hoành, vì vậy, phức tạp hơn thời chiến quốc rất nhiều.
Thủ tướng Anh Winston Churchill từng nói: “Một dân tộc né tránh chiến tranh bằng cái giá của sự nhục nhã, cuối cùng sẽ nhận được cả nhục nhã lẫn chiến tranh”. Nhưng chiến tranh là việc vô cùng hệ trọng. Chúng ta chỉ lấy quyết định ấy như một khả năng xấu nhất, khi buộc phải tự vệ. Tuy nhiên, có một cách khác có thể phòng ngừa chiến tranh là trở thành khớp nồi mềm trong khu vực. Hệ thống đối tác của Việt Nam nên là một bộ phận của cấu trúc an ninh mới trong toàn vùng. An ninh của Việt Nam phải là một bộ phận cấu thành của an ninh khu vực[26]. Nếu chúng ta có một hệ thống ĐTCL mạnh, hệ thống ấy lại “hòa đồng bộ” với mạng lưới đang hình thành như là TPP hay EAS (Cấp cao Đông Á) hoặc một trật tự châu Á-TBD trong tương lai thì hệ thống ĐTCL ấy mới thực sự có sức răn đe.
Từ xa xưa, ngay cả khi tương quan giữa Việt Nam với Trung Quốc như trứng chọi đá, tiền nhân của chúng ta từng rất công phu trong việc xây dựng quan hệ liên minh với các láng giềng phía Nam và phía Tây để đối phó với hiểm họa từ hướng Bắc. Ngày nay, một khi giải được bài toán “hợp tung liên hoành”, Việt Nam hoàn toàn có khả năng mở rộng hợp tác an ninh và phát triển theo trục Đông – Tây, thuận theo xu hướng “xoay trục” của nhiều nước trên thế giới, kể cả của Trung Quốc. Còn một khi Trung quốc đã sử dụng đến phương tiện bạo lực đồng thời dùng lời lẽ trịch thượng trong ngoại giao (gọi đích danh Việt Nam là đứa con “hoang đàng”) thì chính quan hệ liên minh mới ấy sẽ giúp giải tỏa được thế lưỡng nan trong việc vừa duy trì quyền lực tập trung mà vẫn tạo ra được đồng thuận xã hội từng phát huy rất hiệu quả trong quá khứ.
Từ nay, “Giấc mơ Việt Nam”[27], dự án đang tìm cách giải mã các ẩn số an ninh và phát triển cho Việt Nam, bằng cách xây dựng đất nước này trở thành một khớp nối mềm, nói theo ngôn ngữ tin học, một “khớp nối đường trục số” (DTI)[28]. Việt Nam là đất nước có chiều dài lịch sử đủ để xiển dương các giá trị của hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc. Không phải ngẫu nhiên mà những hành động bạo lực của Trung Quốc trên Biển Đông hai tháng qua đều vấp phải sự phê phán của nhiều nước trong/ngoài khu vưc. Các tai nạn thảm khốc về hàng không thời gian qua đưa ra lời cảnh báo, một khi Trung Quốc ngoạm xong đường “lưỡi bò 10 đoạn”, chiếm xong toàn bộ Hoàng Sa-Trường Sa, tuyên bố “vùng nhận dạng phòng không” (ADIZ) trên Biển Đông, Biển Hoa Đông thì rõ ràng các ranh giới giàu – nghèo, phát triển – chậm phát triển, bình yên – bất ổn, sẽ không còn mấy ý nghĩa khi hàng không các nước buộc phải bay qua các khu vực ADIZ do Trung Quốc quản lý.
Kết luận:
Tác giả muốn nhấn mạnh lại một nhận xét trước đây[29]: tính hợp trội (emergence) của hệ thống toàn cầu chính là sự nổi lên của các cấu trúc và sự cố kết trong quá trình hình thành các giải pháp tầm quốc gia/khu vực như một hệ thống. “P&DOWN” là một nỗ lực như vậy. Các lợi thế do mô hình này mang lại có thể là: i) Hệ thống các đối tác chiến lược sẽ thành sức mạnh chế ngự mọi tham vọng quá khích, hiếu chiến, sẽ là quyền lực bao quát cái toàn thể, không hội đủ trong từng biện pháp hợp thành); ii) Dân chủ hóa sẽ đoàn kết bên trong và tạo ra sự cố kết giữa bên trong với bên ngoài, bảo đảm độ bền vững của tiến trình; iii) Luật quốc tế là cơ sở của COC, sau này có thể hội nhập sâu hơn với các cấu trúc khác đang định hình như EAS, TPP, RCEP; iv) Tư duy và hành động minh triết sẽ hội tụ và mở rộng mạng lưới như một quá trình tiến hóa, chứ không đột biến cách mạng (gây sốc/đổ vỡ) và v) Khớp nối mềm sẽ liên kết trong nước với bên ngoài, mang lại tính đại diện cao nên dễ được cộng đồng quốc tế chấp thuận Việt Nam như một thực thể địa-chính trị mới.
Năm biện pháp từng phần để đi tới mô hình hợp nhất rất cần sự đồng thuận giữa lãnh đạo và người dân. Giàn khoan HD-981 là một phép thử về tính khả thi đối với mô hình tổng quát này. Một năm trước, “P&DOWN—1”đã được phân tích. Câu chuyện “hậu giàn khoan” giờ đây là “P&DOWN—2”. Từ nay, mỗi khi có biến cố lớn, đều có thể dùng “P&DOWN—3… n” như một hệ quy chiếu để lượng định tình hình và gia cố các biện pháp. Muốn “P&DOWN” thành công, điều tiên quyết là phải vượt qua trở lực do các “ma-sát xấu” của tư duy ý thức hệ rơi rớt lại. Nếu mô hình này được thực thi, hy vọng sẽ thêm nhiều phiến đá góp phần xây dựng con đường cũng như cách thức bảo vệ phần thuộc về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
[1]http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/131888/giai-phap--cho-bien-dong-trong-hoan-canh-moi-.htmlhttp://vanhoanghean.com.vn/van-hoa-va-doi-song27/cuoc-song-quanh-ta46/giai-phap-nao-cho-van-de-bien-dong?http://www.hoangsa.danang.gov.vn/index.php/vn/2012-08-24-02-10-30/giao-duc-quoc-phong/364-sang-kien-5-chu-cai-cho-van-de-bien-dong
[11]http://csis.org/files/publication/140609_Hiebert_USVietnamRelations_Web.pdf16 khuyến nghị gồm: AN NINH-CHÍNH TRỊ: 1) Khai triển chuyến thăm VN của Tổng thống Obama, 2) Cử đoàn Quốc hội thăm VN, 3) Bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương, 4) Đối thoại về nhân quyền, 5) Hợp tác giữa hai học viện quân sự, 6) Mở rộng quy mô hợp tác hải quân; THƯƠNG MẠI-KINH TẾ-ĐẦU TƯ: 7) TPP, 8) Đối thoại cấp chính phủ về thương mại/đầu tư, 9) Đối thoại giữa các doanh nghiệp, 10) Giảm các hạn chế thương mại/bảo hộ, 11) Công nhận VN là kinh tế thị trường; NGOẠI GIAO NHÂN DÂN: 12) Hợp tác với Fulbright mở đại học tư, 13) Tiếp tục tẩy độc dioxin, 14) Thúc đẩy hợp tác Mekong, 15) Nâng cấp Trung tâm Văn hóa Mỹ ở tp HCM, 16) Tổ chức các sự kiện văn hóa VN ở Mỹ.
[12]Nguyễn Trần Bạt: “Vượt qua những giới hạn”, Q1, NXB Hội Nhà văn, 2013, tr758.
[15]Lê Thanh Dũng-Trần Văn Thủy: Chuyện nghề của Thủy, NXB Hội Nhà văn, 2013, tr426
[17]Nguyễn Trần Bạt: sđd, tr751-752
[24]Tạp chí “Người cao tuổi” và http://boxitvn.blogspot.com/2013/04/giua-viet-nam-va-trung-quoc-khong-co.html
[26]Nguyễn Mạnh Cầm:Trên đường triển khai chính sách đối ngoại theo định hướng mới, TCCS, số 4/1993.
[27]-28(Digital Trunk Interface):“Giấc mơ VN”/“Khớp nối đường trục số” là dự án từ hai doanh nhân Nguyễn Trí Dũng, NICD/Minh Trân &Nguyễn Hữu Thái Hòa, FPT nhằm liên kết trí thức như “những khớp nối mềm” vào công cuộc phát triển bằng cách liên kết 3 nhà: nhà nước – nhà khoa học – nhà doanh nghiệp. GMVN còn nhằm giải mã những ẩn số phát triển. Bắt đầu bằng định vị 5 lợi thế tiềm năng: (1) là trung tâm dòng tiền Châu Á; (2) là ngã ba đường huyết mạch của chuỗi cung ứng; (3) là kho nông nghiêp/lương thực; (4) là nơi chốn có thể xiển dương giá trị của hòa bình; (5) là đất nước có kinh tế/xã hội xanh. VN sẽ xây dựng các giải pháp thông minh, biến lợi thế thành các giá trị vật chất, tinh thần. Trước mắt tập trung 3 mũi nhọn: CNTT và Viễn thông, Nông nghiệp, Du lịch, được “chống lưng” bởi 3 trụ cột:Công nghiệp nhẹ, Dịch vụ và Giáo dục đào tạo, để xây dựng con người Việt Nam đủ sức gánh vác trọng trách trong giai đoạn đột phá tư duy và đẩy mạnh các giá trị sáng tạo. GMVN là đào tạo tư duy khác biệt cho trí thức tương lai, xây dựng cá thể đẳng cấp (best-in-class) có Nhân sinh quan – Thế giới quan – Giá trị quan trên nên tảng kế thừa các giá trị Chân-Thiện-Mỹ của nhân loại.
Nguồn: http://vanhoanghean.com.vn/goc-nhin-van-hoa3/nh%E1%BB%AFng-g%C3%B3c-nh%C3%ACn-v%C4%83n-h%C3%B3a/%E2%80%9Cp-down%E2%80%9D-giai-phap-hau-gian-khoan